Con đường chính trị và thương mại Stephen Hopkins

Hopkins bắt đầu hoạt động công ích vào năm 1730 khi ông 23 tuổi, và trở thành Thẩm phán hoà giải cho thị trấn Scituate mới thành lập bấy giờ, vị trí này được ông giữ cho đến năm 1735. Ông cũng làm thư ký tại Scituate vào năm 1731,[12] một công việc được ông nắm giữ suốt 11 năm cho đến khi chuyển đến Providence năm 1742. Sau nhiệm kỳ thẩm phán cho thị trấn Scituate, ông giữ chức vụ Inferior Court of Common Pleas và General Sessions từ năm 1736 đến 1746, nhiệm kỳ thư ký của Hopkins cũng kết thúc trong năm năm cuối cùng trong thời gian đó.[13] Một số chức vụ khác được Hopkins nắm giữ trong thời gian này gồm chủ tịch Hội đồng thị trấn, phó đại biểu và là người phát ngôn của Hạ viện.[14] Năm 1744, Hopkins được bầu trở thành đại biểu Providence, chức vụ này được ông giữ trong bảy năm tiếp theo, và dành hai năm phục vụ với tư cách là một đại biểu của Hạ viện trong khoản thời gian này.[15]

Sea Captains Carousing in Surinam, một bức tranh châm biếm thập niên 1750 bởi John Greenwood miêu tả các thương gia của Rhode Island trong đó có Hopkins (người ngủ gật trên bàn)

Hopkins bán trang trại của mình ở Scituate vào năm 1742 để chuyển đến định cư tại Providence.[10] Tại đây, ông đã bỏ ra nhiều công sức trong việc giúp ngành thương mại phát triển.[15] Ông trở thành một thương gia đóng, chủ sở hữu và trang bị các thiết bị cho những con tàu, Hopkins cũng là một trong những chủ sở hữu của con tàu tư nhân tên Reprisal vào năm 1745, phi vụ được hợp tác với con trai của Đại tá Peter Mawney là ông John Mawney, cảnh sát trưởng của Providence.[16] Giữa những năm 1750, John Greenwood, một họa sĩ vẽ chân dung ở Boston được một nhóm thuyền thương nhân và trưởng, trong đó có Hopkins, thuê để vẽ ra một bức họa châm biếm. Họa phẩm này đã vẽ lên một bức tranh gồm những người đàn ông kẹt lại tại một thương cảng lớn ở Suriname nằm trên bờ biển phía bắc Nam Mỹ, vùng mà Greenwood sinh sống vào thời điểm đó. Greenwood đã phát họa một khung cảnh trong một quán rượu gồm 22 người, thể hiện Hopkins được bao quanh giữa những thương nhân giàu có khác, nhiều người trong số những thương gia này bị biếm họa trong tình trạng say rượu.[17]

Một trong những công việc của Hopkins sau này là hoạt động như một nhà kinh doanh và sản xuất, ông đã hợp tác cùng với những người anh em khác của mình gồm Moses, Nicholas, JosephJohn Brown để thành lập Hope Furnace.[16] Khu xưởng này chuyên thực hiện những việc liên quan đến đúc sắt cũng như việc sản xuất gang thỏi và đại bác phục vụ trong Chiến tranh Cách mạng.[18] Về sau việc quản lý nhà xưởng đã được giao cho Rufus, con trai của Hopkins trong bốn thập kỷ.[16]

Trở thành Thống đốc

Samuel Ward (trong ảnh), đối thủ chính trị hàng đầu cạnh tranh với Hopkins trong việc dùng đồng tiền tệ

Hopkins nhậm vào nhiệm kỳ thống đốc đầu tiên vào năm 1755, khi ông đánh bại người tiền nhiệm trước đó William Greene với tỷ số cách biệt không quá lớn.[15] Khoảng thời gian này, Hopkins chủ yếu bận rộn với luật pháp và công việc liên quan đến cuộc chiến đang diễn với Pháp. Với thất bại của Thiếu tướng Braddock và việc đóng chiếm Pháo đài Crown Point đã khiến Rhode Island gửi một lực lượng đến Albany. Cuối năm trước đó, Hopkins và Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, ông Daniel Updike, là một đại biểu từ Rhode Island khác đã đến Đại hội Albany, hội nghị này được triệu tập với mục đích thảo luận về các vấn đề bảo vệ các thuộc địa chung đồng thời mở một hội nghị mới với năm bộ lạc da đỏ sống tại đây để yêu cầu sự viện trợ của họ trong việc ngăn sự xâm lược của Pháp.[15][19] Hopkins cùng những nhà lãnh đạo khác đã xem qua bản kế hoạch ban đầu do Benjamin Franklin đề xuất cho việc thống nhất các vấn đề về thuộc địa, nhưng các nguyên tắc của bản kế hoạch cuối cùng đã bị bác bỏ ở cả thuộc địa Rhode Island và Vương quốc Anh.[20] Vào tháng 2 năm 1756 thời điểm bùng nổ chiến tranh với Pháp, 500 người đàn ông sinh sống tại Rhode Island đã được Đại hội đồng huy động tham gia vào trận đánh Hồ George ở New York.[15]

Sau hai năm trên cương vị của mình, Hopkins bị đánh bại bởi William Greene trong việc cạnh tranh chức Thống đốc, nhưng việc Greene qua đời khi đang tại chức vào tháng 2 năm 1758, khiến Hopkins một lần nữa đảm nhiệm vai trò này.[21] Khi đó, một trong những vấn đề gây mâu thuẫn nhất trong chính trị là việc sử dụng giữa hai loại đồng tiền tệ là đồng tiền cứng và đồng tiền giấy, so với việc dùng tiền tệ cứng, Hopkins đã ủng hộ cho việc sử dụng tiền giấy.[22] Vấn đề chính trị gây mâu thuẫn thứ hai vào thời này là lợi ích giữa Newport và Providence.[15] Trong nhiều năm, Hopkins đã vướng vào cuộc tranh chấp gay gắt với Samuel Ward, phó của Westerly, người ủng hộ mạnh mẽ trong việc sử dụng đồng tiền tệ cứng và là một người đặt lợi ích của Newport hàng đầu, Hopkins sau đó đã kiện Ward tội danh vu khống và đòi 40.000 bảng Anh. Vụ kiện này được lên Massachusetts trong việc đưa ra xét xử một cách công bằng; vào năm 1759, kết quả phán quyết cuối cùng nghiêng về phía bất lợi cho Hopkins, và chính ông đã phải trả giá cho vụ kiện này.[22]

Trong mười năm, Hopkins và Samuel Ward giữ mối quan hệ qua lại với tư cách là Thống đốc của thuộc địa, cả Ward và Hopkins đều là người đứng đầu của một đảng thế lực khác nhau.[22] Ward là người dẫn dắt cho sự giàu có và chủ nghĩa bảo thủ tại Quận Newport, Narragansett và Kent, trong khi Hopkins đại diện cho sức mạnh ngày càng tăng của các quận thuộc Rhode Island và Bristol. Hai chính trị gia được ví như những đấu sĩ trên đấu trường, luôn thèm muốn diệt trừ lẫn nhau.[21] Cuối cùng, Ward đánh bại Hopkins thông qua bầu cử và nắm giữ chức vụ Thống đốc vào năm 1762.[23]

Nhà Thống đốc Stephen Hopkins, nằm tại số 15 Phố Hopkins, Providence

Năm 1763, Hopkins giành lại chức thống đốc, dấu hiệu hòa bình giữa Hopkins và Ward chỉ xuất hiện vào một năm sau khi Ward viết thư cho Hopkins yêu cầu cả hai nên từ bỏ "tham muốn đứng đầu chính phủ."[21] Cùng ngày này, Hopkins không biết về lá thư, ông viết thư cho Ward để bổ nhiệm Ward nhận chức phó thống đốc, một vị trí trống sau cái chết của John Gardner.[24] Cuối cùng, cả Hopkins và Ward đều không chấp nhận đề xuất lẫn nhau, nhưng giai đoạn này giữa hai chính trị gia đã trở thành là khởi đầu cho sự hợp tác sau này.[24]

Đầu năm 1765, nghị viện và hạ viện của Quốc hội Anh thông qua về một đạo luật mang tên Đạo luật Tem. Đạo luật là một trong những kế hoạch nhầm áp thuế hải quan vào các thuộc địa, chỉ thị nêu rằng tất cả các tài liệu thương mại chính thức phải được viết trên giấy có tem xác nhận và bán với giá được cố định bởi các quan chức chính phủ, đồng thời chỉ thị cũng áp dụng thuế đối với báo chí. Quốc hội có quyền trong việc đánh thuế vào các thuộc địa cũng như việc tăng thuế đối với các sản phẩm như đường, cà phê và các loại mặt hàng khác, đồng thời yêu cầu hai loại mặt hàng là gỗ và sắt từ các thuộc địa Anh-Mỹ chỉ được xuất khẩu sang Vương quốc Anh. [23]

Tin tức về nội dung của đạo luật này mang lại đã khiến người dân Mỹ tức giận, và Samuel Adams ở Massachusetts phải mời tất cả quan chức của các thuộc địa đến tham dự một đại hội đại biểu ở New York để thảo luận về việc giảm bớt các khoản thuế được đề ra trước đó mang tính bất công. Vào tháng 8 năm 1765, Đại hội đồng Rhode Island đã thông qua một nghị quyết dưới sự chỉ đạo của chính trị gia của Virginia là ông Patrick Henry. Nhà phân phối tem của Rhode Island được bổ nhiệm là Augustus Johnson, nhưng ông đã từ chối nhiệm vụ này vì cho rằng "trái với điều mà Chúa tối cao của chúng ta muốn."[23] Cuộc họp tại East Greenwich của Đại hội đồng Rhode Island vào tháng 9 năm 1765, chọn các đại biểu tham dự đại hội ở New York và quyết định bổ nhiệm một ủy ban xem xét Đạo luật Tem 1765.[25] Ủy ban đưa ra sáu nghị quyết loại trừ mọi sự ưu ái của Hoa Kỳ đối với Anh Quốc trừ khi những bất lợi từ đạo luật mang lại được giải quyết. Đạo luật tem chính thức bị bãi bỏ vào năm 1766, tin tức được đưa đến Mỹ vào tháng 5 cùng năm đó và công dân Mỹ đã tỏ ra vui mừng.[26]

Năm 1764, một đạo luật được thông qua nhầm mục đích thành lập trường đại học tại Rhode Island. Hopkins và Ward đều là những người ủng hộ nhiệt thành cho một cơ sở giáo dục đại học ở thuộc địa, và cả hai chính trị gia đã trở thành ủy viên của hội đồng ủy thác ủy của Rhode Island College.[24] Hopkins cũng đã trở thành một trong những nhà tài trợ hào phóng nhất và là hiệu trưởng đầu tiên của trường học này, một vị trí được ông giữ trong suốt nhiều năm cho đến khi qua đời vào năm 1785.[23]

(Ảnh) Tiểu luận nhỏ của Hopkins được lưu hành rộng rãi ở Mười ba thuộc địa của Anh tại Bắc Mỹ.

Vào năm 1767, cuộc tranh cử vào chức thống đốc Rhode Island của Hopkins là cuộc tranh cử gây gắt nhất trong sự nghiệp chính trị của ông, nhưng Hopkins cuối cùng đã đánh bại Ward với kết quả áp đảo chưa từng có trong bất kỳ cuộc bầu cử trước nào. Đến năm 1768, Hopkins đưa ra lời đề xuất với Ward nhầm khuyên nhủ cả Ward và ông nên từ bỏ yêu sách cạnh tranh trong cuộc bầu cử và đồng ý cho việc chọn ra một ứng viên thỏa hiệp thay thế. Ông Ward đã chấp thuận lời nghị này và Josias Lyndon là người tiếp theo được bầu để trở thành thống đốc, Hopkins về sau đã trở thành bạn thân của Ward và tình bạn giữa ông vẫn được truy trì trong suốt quãng thời gian sau này.[27]

Tiểu luận The Rights of Colonies Examined

Tháng 11 năm 1764, Đại hội đồng Rhode Island cho xuất bản một cuốn sách tiểu luận nhỏ do chính Hopkins biên soạn mang tên The Rights of Colonies Examined (tạm dịch: Quyền của các thuộc địa được kiểm tra).[24] Bài tiều luận này chủ yếu nhắm đến Đạo luật tem và trong việc tạo dựng danh tiếng của Hopkins với tư cách là một nhà lãnh đạo cách mạng, cuốn sách chỉ trích thuế và Nghị viện này đã được phân phối một cách rộng rãi.[28] Văn bản trong bài tiểu luận được bắt đầu rằng, "Tự do là phúc lành lớn nhất mà con người được thụ hưởng, chế độ nô lệ là lời trù rủa nặng nề nhất mà về cơ bản con người có thể mắc phải;" nội dung bài tiểu luận đưa ra một đánh giá rõ ràng về mối quan hệ của các thuộc địa Anh-Mỹ. Bài luận văn của Hopkins đã nhận được sự lưu hành rộng rãi cũng như sự tán thành nồng nhiệt từ khắp các thuộc địa. Nhà sử học Thomas Bicknell gọi bài luận là "tài liệu đáng lưu tâm nhất được xuất bản trong thời kỳ trước Chiến tranh Cách mạng." Ông Thomas Hutchinson, Thống đốc Massachusetts nhận xét về bài báo rằng, "Bài tiểu luận của Hopkins được làm ra ở mức độ căng thẳng cao hơn bất kỳ các bài báo thuộc địa nào trước đây." Hopkins được công nhận là một trong những nhà lãnh đạo dư luận của các thuộc địa và tiểu luận The Rights of Colonies Examined của ông đã được xuất bản rộng rãi.[27]

Chánh án Tòa án tối cao Rhode Island

Tháng 5 năm 1747, Hopkins lần đầu tiên được bổ nhiệm chức vụ thẩm phán Tòa án Cấp cao Rhode Island, một danh hiệu có lịch sử lâu dài trước đó từng mang tên "Tòa án Tư pháp tối cao, Tòa án Đại hình hay Tổng gia tù."[29] Năm 1751, Hopkins trở thành người thứ ba nhậm vào chức Chánh án của tòa án này, chức vụ được ông nắm giữ cho đến khi trở thành thống đốc năm 1755.[30] Vào năm 1770, Hopkins một lần nữa được bầu vào vị trí Chánh án tòa án sau tổng cộng chín năm trên cương vị là một thống đốc; Hopkins giữ vị trí này đến tháng 10 năm 1775, ngoài ra, ông cũng giữ chức đại biểu của Quốc hội Lục địa.[31]

Bức tranh mô tả đốt cháy con tàu Gaspée

Môt sự kiện quan trọng diễn ra trong nhiệm kỳ cuối cùng của Hopkins là Vụ Gaspee được chính Hopkins giải quyết trên cương vị là một chánh án. Vào tháng 3 năm 1772, Phó Thống đốc Darius Sessions của Providence đã gửi một lá thư bày tỏ những lo ngại của mình đến Thống đốc Newport là ông Joseph Wanton, sau khi tham khảo ý kiến của Hopkins. Sessions bày tỏ sự cảnh giác đối với con tàu hộ tống Gaspee của Anh đi qua Vịnh Narragansett, tàu này đã dừng lại để kiểm tra các con tàu thương mại và hậu quả là làm gián đoạn sự thông thương đường thủy.[32] Sessions đã viết:

Tôi đã tham khảo qua ý kiến của Chánh án Hopkins, ông nói rằng không có người chỉ huy con tàu nào lại có quyền dùng bất cứ quyền lực chỉ huy của mình trong đất của Thuộc địa mà không đệ đơn xin phép Thống đốc và dùng sự cho phép này để thực hiện nghĩa vụ của mình – một điều được Thống đốc báo với tôi là một điều lệ phổ biến tại Thuộc địa này.[32]

Sessions nổ lực yêu cầu thống đốc thực hiện các biện pháp buộc chỉ huy tàu phải nhận trách nhiệm. Một loạt thư tư dọa dẫm giữa thống đốc và chỉ huy của Gaspee là Trung úy William Dudingston và Đô đốc John Montagu, cấp trên của Dudingston đã được gửi đi sau đó. Đêm rạng sáng từ ngày 9 đến 10 vào tháng 6, trong lúc phẫn nộ một nhóm cư dân thuộc địa Mỹ đã quyết định đốt cháy tàu Gaspee.[16] Sau vụ việc này, về mặt chính thức buộc ông Sessions chọn cách tỏ ra nổi cơn thịnh nộ và ngụ ý muốn hỗ trợ chính quyền thuộc địa Anh trong việc tìm ra thủ phạm đưa trước công lý. Nhầm giảm bớt áp lực trước chính quyền Anh Quốc, các quan chức chính phủ tại Rhode Island bắt tay vào tìm ra thủ phạm đốt cháy con tàu.[16] Tuy nhiên, tại hiện trường, cả Sessions và Hopkins đã cố gắng che giấu tất cả những bằng chứng có thể tìm được trong việc xác định danh tính của những người thủ phạm.

Một ủy ban hoàng gia được chỉ định bởi người Anh nhầm tham gia vào công việc điều tra vụ án và đưa ra yêu cầu rằng bất kỳ người bị truy tố nào được xác định phải được đưa về Anh để xét tội. Lo ngại nghiệm trọng đối với quyền tự do của cư dân địa phương đã thúc đẩy thành lập nên Ủy ban Thư tín.[16] Thống đốc Hutchinson, một người rất trung thành với Massachusetts kiên quyết thúc giục Vương quốc Anh xóa bỏ Hiến chương Hoàng gia Rhode Island đã làm tăng thêm sự nhạy cảm trầm trọng đối với những cư dân sinh sống tại địa phương Rhode Island.[16]

Sessions trao đổi với Hopkins cùng hai luật sư John Cole và Moses Brown, bốn người họ đã cùng nhau soạn một lá thứ gửi cho chính khách của Massachusetts, ông Samuel Adams. Adams hồi đáp bằng lời kêu gọi thúc giục chính quyền Rhode Island tiếp tục giữ thế thách thức, hoặc ngăn chặn bằng các vấn đề nảy sinh bằng việc thành lập một ủy ban hoàng gia.[16] Thống đốc Wanton là người đứng đầu ủy ban này nhưng ông lại về phía Sessions và Hopkins nhằm làm thất bại các mục tiêu của ủy ban.[16] Sessions cùng Hopkins và những người khác phối hợp trong việc nổ lực phi tang chứng cứ, cũng như dọa dẫm các nhân chứng và làm giảm đi sự tin tưởng của những người đứng ra làm chứng. Những thủ phạm đứng sau vụ đốt cháy con tàu cũng được đa số đông đảo cư nhân tại Rhode Island ủng hộ và giữ kín về danh tính. Một năm sau đó, kết thúc cuộc truy tìm của ủy ban hoàng gia của người Anh và không có một bản báo cáo nào về danh tính thủ phạm được đưa ra.[16]

Quốc hội Lục địa

Cuộc họp Đệ nhất Quốc hội Lục địa lần đầu tiên diễn ra vào năm 1774, Hopkins và Ward là hai đại biểu đại diện của Rhode Island. Khi đó Hopkins, đã 68 tuổi, ông là người lớn tuổi nhất trong số tất cả các thành viên đại biểu vào thời điểm đó, và chỉ có Hopkins là đại biểu duy nhất từng cùng Benjamin Franklin tham dự Đại hội Albany vào 20 năm trước.[33] Trong nhiều năm, Hopkins gặp phải chứng tê liệt ở tay và làm ảnh hưởng lớn đến năng lực viết của ông. Tại hội nghị này, Henry Arniett Brown đã viết về Hopkins rằng, "người ngồi đằng kia là người già nhất trong số họ. Dáng ông hơi nghiêng, những lọn tóc thưa thớt, vầng trán của ông trĩu xuống vì tuổi tác và lòng phụng sự tận tụy, đôi tay của ông run khi đặt chúng vào lòng. Đó là Stephen Hopkins."[33]

Hội nghị Đệ nhất Quốc hội Lục địa được triệu tập với mục đích xem xét các đối sách của Vương quốc Anh nhầm đảm bảo quyền lợi và đặc quyền của 13 thuộc địa. Cả Hopkins và Ward trước đó đều dự đoán rằng độc lập sẽ chỉ xuất phát từ chiến tranh. Hopkins nói với các cộng sự của mình tại Quốc hội: "Thuốc súng và dạn sẽ quyết định cho câu hỏi. Riêng khẩu súng và lưỡi lê sẽ kết thúc cuộc đấu giao chiến này, và bất kỳ ai trong số các anh không thể điều chỉnh sự tập trung của mình vào cuộc dao chạm, tốt hơn là nên rút lui kịp thời."[33]

Bức tranh Tuyên ngôn độc lập của John Trumbull. Hopkins được phác họa đứng phía sau gần cửa ở bên trái.

Sau các cuộc tấn công nhấm vào tháng 4 của Trận Lexington và Concord, phiên họp lập pháp lần thứ hai Đệ Nhị Quốc hội Lục địa diễn ra vào ngày 10 tháng 5 năm 1775 và Hopkins một lần nữa là đại biểu tham dự cuộc họp này.[33] Đại hội này được triệu tập với mục đích điều hành chiến lược chiến tranh, và sau đó tiến hành việc tuyên bố độc lập của Hoa Kỳ khỏi Vương quốc Anh. Tháng 7 năm 1775, quốc hội áp dụng hệ thống bưu chính quốc gia được đề xuất bởi ông William Goddard, và Benjamin Franklin trở thành Tổng Bưu tá trưởng Hoa Kỳ đầu tiên. Đây là một ý tưởng đã được Rhode Island thực hiện vào một tháng trước đó.[34] Đến tháng 12 năm 1775, Hopkins góp mặt trong ủy ban để báo cáo về kế hoạch trang bị vũ khí hải quân cho các quân đội thuộc địa. Lượng kiến thức mà Hopkins sở hữu về kinh doanh vận tải biển được ông phục vụ với tư cách là thành viên của ủy ban hải quân Quốc hội vốn thành lập nhầm mục đích mua, trang bị cũng như vận hành những con tàu đầu tiên của Hải quân Lục địa mới đã trở nên thực sự hữu ích. Hopkins là người có công trong việc xây dựng nên bộ luật hải quân Hoa Kỳ và soạn thảo ra các nguyên tắc cũng như những quy định cần thiết để phục vụ cho công việc quản lý một tổ chức hàng hải non trẻ vừa mới ra đời hồi Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Hải đội hải quân đầu tiên của Mỹ được hạ thủy vào ngày 18 tháng 2 năm 1776. Ngoài ra, Hopkins từng sử dụng sức ảnh hưởng của mình để giữ vị trí tổng tư lệnh hải quân mới cho người anh trai Esek Hopkins, vì cuộc bổ nhiệm trước cho thấy một tỷ lệ kết quả không mong muốn.[35]

Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence chính thức tuyên bố tách khỏi Anh Quốc thông qua một cuộc bỏ phiếu thống nhất vào ngày 4 tháng 5 năm 1775; Mười ba thuộc địa Mỹ tuyên bố tách khỏi Anh trở thành một phần văn bản phê chuẩn trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ được thông qua bởi Quốc hội Lục địa vào ngày 2 tháng 7. Hopkins là một trong những người ký vào bản tuyên ngôn độc lập, ông ký văn bản bằng tay phải và nâng đỡ nó bằng cánh tay trái, Hopkins nói, "chỉ có tay tôi run, nhưng trái tim tôi thì không."[34] Cuộc hội họp của nhóm lập quốc Hoa Kỳ được mô tả trong tác phẩm nghệ thuật Tuyên ngôn Độc lập bởi họa sĩ người Mĩ John Trumbull, trong đó hình ảnh Hopkins được phác họa là người đội mũ và đứng ở phía sau.[36][37][38]

Những đóng góp của Hopkins trong các phiên họp quốc hội được John Adams đánh giá cao như sau:

Thống đốc Hopkins của Rhode Island, người trên bảy mươi tuổi đã giữ cho tất cả chúng tôi sống. Trong công việc thống đốc, kinh nghiệm và trí phán đoán của ông rất hữu ích. Nhưng khi công việc buổi tối kết thúc, ông vẫn trò chuyện với chúng tôi cho đến mười một giờ và đôi khi đến tận mười hai giờ. Thói quen của ông là không uống gì cả ngày và cũng như đến lúc 8 giờ, vào buổi tối, và sau đó thức uống của ông là rượu Rum và nước. Việc làm này mang lại cho ông sự nhuệ mẫn, khiếu hài hước, kỹ năng kể chuyện, khoa học và học tập. Ông đã tìm hiểu từ lịch sử Hy Lạp, La Mã và cả Vương quốc Anh: và đặt biệt thân thuộc với thơ văn Anh từ những thi sĩ Pope, Tompson cũng như cả Milton... Và dòng tâm hồn của ông đã biến tất cả những gì mà ông từng đọc được thành của chúng tôi, và ông dường như khơi gợi lại những hồi ức trong tất cả chúng tôi về những gì chúng tôi từng được đọc. Vào những ngày ấy tôi không thể ăn hay uống gì. Các quý ông thường cư xử rất có chừng mực. Về Hopkins, ông không bao giờ uống rượu quá mức, nhưng thứ ông uống không những chuyển hóa ngay lập tức thành trí tuệ sáng suốt, ý thức, kiến thức và dòng tâm trạng tốt mà còn là truyền cảm hứng cho tất cả chúng tôi về những phẩm chất tương tự.[39]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Stephen Hopkins https://books.google.com/books?id=Y-FPXEGRo-YC&q=H... https://archive.org/details/foundingfathersr0000be... https://books.google.com/books?id=3C4tAQAAMAAJ&pg=... https://www.rihs.org/wp-content/uploads/2020/02/20... https://www.wikidata.org/wiki/Q1399643#identifiers https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Stephe... http://www.quahog.org/factsfolklore/index.php?id=4... https://web.archive.org/web/20210402010637/http://... http://www.colonialhall.com/hopkins/hopkins.php https://web.archive.org/web/20060906060308/http://...